Vũ đài xung đột Thế giới thứ ba Chiến_tranh_Lạnh_(1953–1962)

Giải thực

Cuộc Chiến tranh Triều Tiên đánh dấu một sự thay đổi trong trọng tâm của cuộc Chiến tranh Lạnh, từ châu Âu hậu chiến sang Đông Á. Sau thời điểm này, các trận chiến uỷ nhiệm ở Thế giới thứ ba trở thành một vũ đài quan trọng của cuộc cạnh tranh giữa các siêu cường.

Chính quyền Eisenhower đã sửa đổi chính sách của Hoa Kỳ sau tác động của việc giải thực. Nó làm thay đổi trọng tâm giai đoạn 1947-1949 ra khỏi một châu Âu đã bị tàn phá sau chiến tranh. Tới đầu thập niên 1950s, liên minh NATO đã tích hợp hầu như toàn bộ các quốc gia Tây Âu vào trong hệ thống hiệp ước quốc phòng chung, cung cấp các biện pháp ngăn chặn phá hoại hay trung lập hoá trong khối. Kế hoạch Marshall đã tái tạo lại một hệ thống kinh tế phương Tây hoạt động hiệu quả, ngăn cản những lời kêu gọi của một cánh tả cấp tiến. Khi viện trợ kinh tế đã làm chấm dứt, sự thiếu hụt đồng dollar và việc khuyến khích đầu tư tư nhân cho việc tái thiết hậu chiến, đổi lại nó giúp Hoa Kỳ thoát khỏi một cuộc khủng hoảng sản xuất dư thừa và duy trì nhu cầu cho xuất khẩu của họ, chính quyền Eisenhower bắt đầu chú trọng tới các vùng khác.

Những hiệu ứng tương tác của hai cuộc đại chiến tại châu Âu đã làm suy yếu sự thống trị kinh tế và chính trị của Mỹ Latinh, châu Á, châu Phi, và Trung Đông bởi các cường quốc phương Tây. Điều này dẫn tới một loạt các làn sóng giải thực ở châu Á và châu Phi sau Thế chiến II; một thế giới từng bị thống trị trong hơn một thế kỷ bởi các cường quốc đế quốc thuộc địa phương Tây đang chuyển tiếp thành một thế giới của các quốc gia châu Phi, Trung Đông, và châu Á đang nổi lên. Con số các quốc gia ngày càng tăng lên nhanh chóng.

Cuộc Chiến tranh Lạnh bắt đầu đặt các áp lực lứon lên các quốc gia đang phát triển về việc liên minh với một trong hai nhóm siêu cường. Cả hai đều hứa hẹn những khoản viện trợ tài chính, quân sự và ngoại giao lâu dài để đồi lấy một liên minh, trong đó các vấn đề như tham nhũng, và vi phạm nhân quyền đều bị bỏ qua. Khi một chính phủ liên minh bị đe doạ, các siêu cường thường chuẩn bị và luôn có ý muốn can thiệp.

Trong một bối cảnh quốc tế như vậy, Liên bang Xô viết đã truyền bá một vai trò như nước lãnh đạo của phe "chống đế quốc", thu hút sự chú ý của Thế giới thứ ba như một đối thủ đáng tin cậy của chủ nghĩa đế quốc chứ không phải nhiều quốc gia đã có độc lập ở châu Phi và châu Á. Khrushchev đã mở rộng chính sách của Moscow bằng cách thiết lập các quan hệ mới với Ấn Độ và các quốc gia thành viên quan trọng khác của phong trào không liên kết và các nước phi cộng sản khác trong khắp Thế giới thứ ba. Nhiều quốc gia thuộc Phong trào không liên kết đã phát triển các mối quan hệ thân cận với Moskva.

Trong một cuộc diễn tập các chính sách "hạ giá" mới, theo các học thuyết của Dulles, Eisenhower đã cản trở sự can thiệp của Liên Xô, sử dụng CIA để lật đổ các chính phủ thù địch. Trong thế giới Ả Rập, tiêu điểm là phong trào quốc gia liên Ả Rập. Các công ty Mỹ đã đầu tư nhiều vào vùng này, nơi có những giếng dầu lớn nhất thế giới. Hoa Kỳ lo lắng về sự ổn định và tính trung thành của các chính phủ trong vùng, nơi sức khoẻ của nền kinh tế Mỹ đang ngày càng phụ thuộc vào.

Các khối hiệp ước quốc phòng

Chính quyền Eisenhower tìm cách chính thức của hệ thống liên minh của mình thông qua một loạt các hiệp ước. Các đồng minh Đông Á của họ gia nhập vào trong Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) trong khi các nước bè bạn ở Mỹ Latinh được gộp vào trong Tổ chức các Quốc gia Mỹ Latinh. Liên minh ANZUS được ký kết giữa Hoa Kỳ, AustraliaNew Zealand. Không nhóm nào trong số này có được thành công như NATO từng có ở châu Âu.

John Foster Dulles, một người chống cộng cứng rắn, dần tập trung vào chính trị của Thế giới thứ ba. Ông tăng cường những nỗ lực "sáp nhập" toàn bộ Thế giới thứ ba phi cộng sản vào trong một hệ thống các hiệp ước quốc phòng đa phương, vượt tới 500.000 dặm để củng cố cho các liên minh mới. Dulles đưa ra sáng kiến Hội nghị Manila năm 1954, dẫn tới hiệp ước SEATO thống nhất tám quốc gia (dù ở Đông Nam Á hay có lợi ích ở đó) vào trong một hiệp ước phòng thủ trung lập. Hiệp ước này được tiếp nối năm 1955 bởi Hiệp ước Baghdad, sau này được đổi tên thành Tổ chức Hiệp ước Trung tâm (CENTO), thống nhất các quốc gia "phía bắc" Trung Đông—Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq, Iran, và Pakistan—trong một tổ chức phòng thủ.

Tuy nhiên, nhiều quốc gia thế giới thứ ba không muốn gia nhập với bất kỳ cường quốc nào. Phong trào không liên kết, dẫn đầu bởi Ấn Độ, Ai Cập, và Áo, tìm cách thống nhất thế giới thứ ba chống lại cái bị coi là chủ nghĩa đế quốc bởi cả phương Đông và phương Tây.

Ảnh hưởng Liên Xô và Chủ nghĩa quốc gia

Dulles, cùng với hầu hết các nhà hoạch định chiến lược của Hoa Kỳ thời kỳ này, coi nhiều nhân vật quốc gia và "các mạng" của thế giới thứ ba là chủ yếu nằm dưới tầm ảnh hưởng, nếu không nói là tầm kiểm soát của Khối hiệp ước Warsaw. Trớ trêu thay, trong cuốn Chiến tranh, Hoà bình và Thay đổi (1939), ông đã gọi Mao Trạch Đông là một "nhà cải cách nông nghiệp," và trong Thế chiến II ông đã gọi những người theo Mao là "cái gọi là 'phái Hồng quân của Mao'." [21] Nhưng ông không còn được công nhận là có các nguồn ngốc bản xứ nữa trong Đảng Cộng sản Trung Quốc ở năm 1950. Trong Chiến tranh và Hoà bình, một tác phẩm đầy ảnh hưởng bác bỏ các chính sách ngăn chặn của chính quyền Truman, và tán thành một chương trình "giải phóng" tích cực, ông đã viết:

Vì thế 450.000.000 người ở Trung Quốc đã ngã xuống dưới sự lãnh đạo chống Mỹ cuồng nhiệt, và thực hiện nó dưới sự ảnh hưởng và hướng dẫn từ Moscow... giới lãnh đạo Liên Xô đã giành một thắng lợi ở Trung Quốc vượt quá cả điều Nhật Bản đang tìm kiếm và chúng ta đã đối đầu với nguy cơ là cả một cuộc chiến để ngăn chặn."[22]

Phía sau vũ đài, Dulles có thể giải thích các chính sách của ông theo địa chính trị. Nhưng trước công chúng, ông sử dụng các lý do đạo đức và tôn giáo mà ông tin rằng người Mỹ thích nghe, thậm chí ông thường bị chỉ trích bởi những nhà quan sát trong nước và nước ngoài vì vì ngôn ngữ mạnh của mình.

Hai trong những nhân vật hàng đầu ở giai đoạn giữa hai cuộc chiến và đầu thời kỳ Chiến tranh Lạnh xem xét các quan hệ quốc tề từ một quan điểm "hiện thực", nhà ngoại giao George Kennan và nhà lý luận Reinhold Niebuhr, đã rất bận tâm tới chủ nghĩa đạo đức của Dulles và phương pháp theo đó ông phân tích cách hành xử của Liên Xô. Kennan đồng ý với lý lẽ rằng Liên Xô thậm chí có một thiết kế thế giới sau khi Stalin chết, và còn quan tâm nhiều hơn với việc duy trì sự kiểm soát với khối của mình. Nhưng những giả định bên dưới của một thế giới cộng sản bền vững, được định hướng từ Kremlin, về chính sách ngăn chặn của Truman-Acheson sau bản dự thảo của NSC-68 là đặc biệt so sánh được với những điều của chính sách đối ngoại Eisenhower-Dulles. Những kết luận của Paul Nitze trong các văn bản của Hội đồng An ninh Quốc gia như sau:

Điều gì mới, điều gì tạo ra các cuộc khủng hoảng đang diễn ra, là sự phân cực quyền lực vốn chắc chắn gây xung đột giữa xã hội nô lệ và xã hội tự do… Liên Xô, không giống như những kẻ muốn có quyền bá chủ trước kia, bị điều khiển bởi một đức tin cuồng tín mới, trái ngược với đức tin của chúng ta, và đang tìm cách áp đặt quyền lực tuyệt đối của nó… [tại] Liên Xô và thứ hai trong khu vực hiện thuộc quyền kiểm soát [của họ]… Tuy nhiên, trong tâm tưởng của các nhà lãnh đạo Liên Xô, việc hoàn thành mong ước này đòi hỏi sự mở rộng mạnh quyền lực của họ... Vì thế những nỗ lực hiện nay của Liên Xô đang hướng tợi việc thống trị các khu vực đất đai Âu Á." Lưu trữ 2004-02-09 tại Wayback Machine

Mossadegh và CIA tại Iran

Hoa Kỳ cũng phản ứng lại với sự báo động khi họ quan sát các phát triển tại Iran, vốn là một nhà nước bất ổn từ năm 1951.

Thông qua Công ty Dầu mỏ Anh-Iran (AIOC), người Anh có độc quyền về việc chuyên chở, bơm và lọc dầu ở hầu hết lãnh thổ Iran. Công ty này trả các khoản tiền sở hữu cho chính phủ Shah— được người Anh đặt lên ngôi năm 1941. Nhưng những khoảng chi trả và tiền lương cho người lao động Iran rất thấp, các khoản thu của công ty lớn gấp mười lần chi phí.[23] Iran phải đối mặt với sự đói nghèo, những người theo chủ nghĩa quốc gia nhấn mạnh rằng việc sở hữu công ty sẽ làm thay đổi điều này.

Nhiều người Iran yêu cầu một khoản chia lớn hơn từ thu nhập của công ty. Trả đũa lại, AIOC nói rằng họ có một thoả thuận bắt buộc với Shah cho tới năm 1993, và hợp tác với một số lực lượng chính trị Iran để thảo ra một báo cáo phản đối việc quốc hữu hoá. Tháng 2 năm 1951, Thủ tướng Iran, bị nghi ngờ có liên quan tới bản báo cáo, bị ám sát. Ông bị thay thế bởi nhân vật theo chủ nghĩa quốc gia Mohammed Mossadegh. Cuối năm ấy vị thủ tướng mới quốc hhữu hoá những giếng dầu của nước mình đang thuộc sở hữu của người Anh.[cần dẫn nguồn]

Khi người Iran hướng theo mục đích chiếm lấy các nguồn tài nguyên, chính quyền Truman đã tìm cách hoà giải. Sau này, chính quyền Eisenhower, tin rằng Iran đang phát triển các mối quan hệ với cộng sản, đã sử dụng CIA, cùng với các lãnh đạo quân sự Iran để lật đổ chính phủ Iran. Mossadegh lôi kéo Tudeh, Đảng Cộng sản Iran, làm lực lượng ủng hộ ông. Tuy nhiên, tới năm 1953 đảng này đã bắt đầu chỉ trích ông là một nhà nước con rối của Hoa Kỳ. Bởi Tudeh là đảng cộng sản mạnh nhất ở Trung Đông, chính quyền Eisenhower viện dẫn một nguy cơ tiềm tàng về việc cộng sản chiếm quyền lực ở Trung Đông cho việc can thiệp. Mossadeq viện dẫn mối đe doạ cộng sản đề giành được sự nhượng bộ của Mỹ. Vị thủ tướng cho rằng khi nền kinh tế Iran xấu đi và những lo ngại về sự chiếm quyền của cộng sản sẽ thu hút chính phủ Mỹ, Hoa Kỳ sẽ từ bỏ người Anh và cứu ông khỏi tình thế khó khăn.[24]

Để thay thế Mossadegh, Hoa Kỳ lựa chọn Mohammed Reza Pahlevi trẻ tuổi. Đổi lại, Pahlevi hứa cho phép các công ty Mỹ có cổ phần trong sự phát triển các nguồn tài nguyên ở quốc gia của ông. Theo các tài liệu của CIA được giải mật năm 2000, Hoa Kỳ đã cung cấp súng, xe tải và xe thiết giáp cùng thiết bị truyền tin radio trong cuộc đảo chính được CIA tài trợ năm 1953, đưa Pahlevi từ vị trí một quốc vương lập hiến trở thành người cai trị tuyệt đối.[25][26][27] Với việc đã loại bỏ được Mossadeq, các khoản lợi nhuận từ dầu mỏ sau đó dược phân chia giữa chế độ Shah và một công ty liên doanh quốc tế mới. Người Anh được 40% lợi tức từ dầu mỏ của Iran, năm công ty Hoa Kỳ (Gulf,SOCONY-Vacuum, Standard Oil of California, Standard Oil of New Jersey, và Texaco) được 40% khác, và phần còn lại thuộc Royal Dutch ShellCompagnie Française des Pétroles.[28] Những khoản lợi nhuận được chia đều giữa liên doanh và Iran.[29]

Từ đầu thế kỷ Hoa Kỳ đã tìm cách thâm nhập vào các giếng dầu của Iran và gặp phải sự cạnh tranh của Anh. Sự đột phá của Hoa Kỳ đã được thực hiện nhờ các mối quan hệ thời Chiến tranh Lạnh với Shah và dưới sự hướng dẫn của quan chức Bộ ngoại giao Herbert Hoover, Jr., người có rất nhiều kinh nghiệm trong việc giải quyết những sự phức tạp trong các vấn đề của dầu mỏ và hoạt động như một nhà doanh nghiệp tư.[30]

Mỹ Latinh

Cách tiếp cận của chính sách đối ngoại Eisenhower-Dulles không thiết lập việc sử dụng các phương tiện bí mật để lật đổ các chính phủ không thân thiện, nhưng nó dần phụ thuộc vào các chiến dịch bí mật của CIA.

Sự can thiệp của Mỹ vào Mỹ Latinh bắt đầu với Học thuyết Monroe năm 1824 và tiếp tục trong cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha Mỹ năm 1898, những sự can thiệp chống lại lực lượng nổi dậy ở CubaPhilippines, và Hệ luận Roosevelt với Học thuyết Monroe năm 1904, tuyên bố rằng Hoa Kỳ nắm vai trò cảnh sát để cản trở những thay đổi với tình trạng hiện có và những sự chuyển dịch trong khu vực Caribbean. Ở đỉnh điểm cuộc Cách mạng Mexico khoảng một thập kỷ sau đó, Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson đã sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự chống lại México một lý do căn bản nhân đạo và tự do. Tuy nhiên, phạm vi đầu tư cá nhân của Hoa Kỳ tiếp tục tăng lên trong vùng.

Trên hầu hết Mỹ Latinh, các chính thể đầu sỏ phản động cầm quyền thông qua các liên minh của chúng với giới đầu sỏ quân sự và Hoa Kỳ. Dù tình thế vai trò của Hoa Kỳ trong vùng đã được thành lập nhiều năm trước cuộc Chiến tranh Lạnh, cuộc Chiến tranh Lạnh trao cho chủ nghĩa can thiệp Mỹ một vẻ lý tưởng. Nhưng tới giữa thế kỷ 20, đa phần vùng này trải qua một sự phát triển kinh tế mạnh, làm tăng cường quyền lực và sức mạnh của các tầng lớp thấp. Điều này dẫn tới những lời kêu gọi thay đổi xã hội và chính trị, đặt ra một nguy cơ với sự ảnh hưởng mạnh của Mỹ với những nền kinh tế trong vùng. Tới những năm 1960, Chủ nghĩa Mác dần giành được ảnh hưởng trên cả vùng, khiến Hoa Kỳ lo ngại rằng sự mất ổn định của Mỹ Latinh có thể là một mối đe doạ với an ninh quốc gia Mỹ.

Trong suốt những năm Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã hành động như một barrier ngăn chặn các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và nhắm vào các chính phủ dân tuý và quốc gia được những người cộng sản hỗ trợ. CIA đã lật đổ các chính phủ khác bị nghi ngờ đang quay sang ủng hộ cộng sản, như Guatemala năm 1954 dưới sự lãnh đạo của Jacobo Arbenz Guzman. Chiến dịch PBSUCCESS của CIA cuối cùng dẫn tới một cuộc đảo chính năm 1954 lật đổ Arbenz. Chiến dịch được vạch ra trên một kế hoạch được xem xét lần đầu năm 1951 để loại bỏ Arbenz và được đặt tên là Chiến dịch PBFORTUNE. Arbenz, người được một số người cộng sản địa phương ủng hộ, đã bị lật đổ một thời gian ngắn sau khi ông phân phối lại 178.000 acres (720 km²) đất đai của United Fruit Company tại Guatemala. United Fruit từ lâu đã có độc quyền vận tải và viễn thông trong vùng, cùng với các mặt hàng xuất khẩu chính, và đóng vai trò quan trọng trong chính trị Guatemala. Arbenz bị lật đổ ngay sau đó, và Guatemala trở lại dưới sự kiểm soát của một chế độ quân sự đàn áp.

Những cuộc cách mạng tương lai của Mỹ Latinh chuyển sang chiến thuật chiến tranh du kích, đặc biệt sau cuộc Cách mạng Cuba. Arbenz cảm thấy quân đội đã rời bỏ mình. Từ đó, một số cuộc cách mạng xã hội Mỹ Latinh tương lai và những người Maxist, đáng chú ý nhất là Fidel Castro và lực lượng SandinistaNicaragua biến quân đội và chính phủ thành một đơn vị duy nhất và cuối cùng lập nên các nhà nước độc đảng. Việc lật đổ các chế độ đó đòi hỏi chiến tranh, chứ không phải một chiến dịch đơn giản của CIA, việc đổ bộ Lính thuỷ đánh bộ, hay một cuộc xâm lược thô bạo kiểu vụ Xâm lược vịnh con Lợn.

Đông Dương thuộc Pháp

Hai phi công Mỹ đã thiệt mạng khi đang thực thi nhiệm vụ trong cuộc bao vây Điện Biên Phủ. Trận Điện Biên Phủ (tiếng Pháp: Bataille de Diên Biên Phu) là trận đánh thuộc cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất giữa các lực lượng của Liên hiệp Pháp thuộc Lực lượng Viễn chinh Viễn Đông Pháp, và lực lượng cách mạng cộng sản Việt Minh. Trận đánh diễn ra từ tháng 3 tới tháng 5 năm 1954, và kết cục là sự thua trận của Pháp dẫn tới việc chấm dứt chiến tranh. Điện Biên Phủ là "lần đầu tiên một phong trào độc lập thuộc địa không thuộc châu Âu đã lớn mạnh qua mọi giai đoạn từ các đội quân du kích tới một quân đội quy ước được tổ chức có khả năng đánh bại một kẻ chiếm đóng phương Tây hiện đại trong một trận đánh dữ dội."[4]

Như một kết quả của những sai lầm trong quá trình hoạch định chiến lược của Pháp, người Pháp đã tiến hành xây dựng một căn cứ được tiếp tế bằng đường không tại Điện Biên Phủ, nằm sâu trong những vùng đồi núi của Việt Nam. Mục đích của nó là cắt các đường tiếp tế của Việt Minh vào nhà nước bảo hộ Lào của Pháp, cùng lúc đó dử Việt Minh vào một trận đánh để kết liễu họ. Thay vào đó, Việt Minh, dưới sự chỉ huy của Tướng Võ Nguyên Giáp, đã bao quanh và vây hãm quân Pháp, những người không biết rằng Việt Minh đã sở hữu pháo hạng nặng (gồm cả súng phòng không) và khả năng di chuyển các loại vũ khí đó lên các đỉnh núi nhìn thẳng xuống doanh trại quân Pháp. Việt Minh đã chiếm các ngọn núi bao quanh Điện Biên Phủ, và có khả năng bắn chính xác xuống các vị trí của Pháp. Những trận đánh ngoan cường tiếp diễn trên mặt đất, làm nhớ lại cuộc chiến tranh công sự thời Thế chiến I. Quân Pháp liên tục đẩy lui các cuộc tấn công của Việt Minh vào các vị trí của họ. Các nguồn tiếp tế và lực lượng tăng cường được gửi tới theo đường không, dù vậy các vị trí của Pháp vẫn bị tiêu diệt và hoả lực phòng không khiến ngày càng ít hàng tiếp tế tới được với họ. Sau hay tháng bao vây, cứ điểm bị tiêu diệt và hầu hết quân Pháp đầu hàng. Dù đã mất đa số những người lính tinh nhuệ nhất, Việt Minh vẫn duy trì được các lực lượng còn lại và tiếp tục truy kích những người lính Pháp bỏ trốn trong rừng, đán tan họ và chấm dứt trận đánh.

Một thời gian ngắn sau trận đánh, cuộc chiến tranh chấm dứt với Hiệp định Genève năm 1954, theo đó người Pháp đồng ý rút quân khỏi các thuộc địa cũ của họ ở Đông Dương. Hiệp định chia Việt Nam làm đôi; chiến tranh tiếp diễn năm 1959, giữa các lực lượng đối đầu của Việt Nam và trở thành Chiến tranh Việt Nam (Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai).[31]

Đông Dương

Cuộc can thiệp mạnh mẽ nhất của Hoa Kỳ là tại Đông Dương. Từ năm 1954 đến năm 1961, chính quyền đã gửi viện trợ kinh tế và 695 cố vấn quân sự tới chính quyền Việt Nam Cộng hòa (RVN), đang chiến đấu với quân du kích thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng (NLF), với các binh sĩ từ trong giới nông dân miền nam và được Bắc Việt Nam hỗ trợ, và Bắc Việt Nam lại được Liên bang Xô viết và Trung Quốc ủng hộ. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa sau này bị các đối thủ Cộng sản đánh bại hình thành nền nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việt Nam là một trong năm quốc gia cộng sản còn lại của thế giới.

Khủng hoảng kênh Suez

Trung Đông trong Chiến tranh Lạnh là một vũ đài rất quan trọng và cũng rất không ổn định. Vùng này nằm trực tiếp phía nam Thổ Nhĩ KỳIran nơi Liên Xô có ảnh hưởng truyền thống rất mạnh. Vùng này cũng có những trữ lượng dầu mỏ to lớn, không tối cần thiết cho bất kỳ một siêu cường nào trong thập niên 1950 nhưng là tối quan trọng cho việc nhanh chóng xây dựng các đồng minh của Mỹ ở châu Âu và Nhật Bản.

Kế hoạch ban đầu của Mỹ về Trung Đông là hình thành nên một vành đai phòng vệ dọc theo biên giới phía bắc của vùng. Vì thế Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq, Iran, và Pakistan đã ký Hiệp ước Baghdad và gia nhập CENTO. Phương Đông trả đũa bằng cách tìm kiếm ảnh hưởng tại các quốc gia như SyriaAi Cập. Tiệp Khắc và Bulgaria lập các hợp đồng vũ khí với Ai Cập và Syria, khiến các thành viên Khối hiệp ước Warsaw có sự hiện diện mạnh trong vùng. Ai Cập, một nước bảo hộ cũ của Anh, là một trong những nước quan trọng nhất trong vùng với dân số lớn và quyền lực chính trị bao trùm cả vùng. Các lực lượng Anh đã bị Tướng Gamal Abdel Nasser loại bỏ năm 1956, khi ông quốc hữu hoá Kênh Suez. Syria là một nước bảo hộ cũ của Pháp.

Eisenhower đã thuyết phục Anh Quốc và Pháp triệt thoái khỏi một cuộc xâm lược được lên kế hoạch kém cùng Israel và đã được tung ra nhằm lấy lại quyền kiểm soát kênh Suez từ Ai Cập. Tuy người Mỹ phải hành động lén lút, để không làm phiền luỵ tới các đồng minh, các quốc gia Khối Đông Âu đã tung ra những đe doạ ầm ỹ chống lại "những tên đế quốc" và tự tô vẽ mình là những người bảo vệ Thế giới thứ ba. Nasser sau đó được ca ngợi trên khắp thế giới, nhưng đặc biệt là ở Thế giới Ả Rập. Tuy cả hai cường quốc cùng ve vãn Nasser, người Mỹ đã lưỡng lự trong việc cung cấp vốn cho dự án Đập Cao Aswan to lớn. Tuy nhiên, các quốc gia Khối hiệp ước Warsaw lại đồng ý một cách vui vẻ, và ký một hiệp ước hữu nghị và hợp tác với người Ai Cập và người Syria.

Vì thế, thế bế tắc của kênh Suez đã trở thành một điểm mấu chốt dẫn tới một sự rạn nứt chưa từng có giữa các quốc gia đồng minh Đại Tây Dương thời Chiến tranh Lạnh, biến họ trở nên xa cách nhất từ sau Thế chiến II. Italia, Pháp, Tây Ban Nha, Tây Đức, Na Uy, Canada, và Anh cũng phát triển các lực lượng hạt nhân của riêng họ cũng như một Thị trường Chung ít phụ thuộc vào Mỹ hơn. Những sự rạn nứt đó phản chiếu những thay đổi trong kinh tế thế giới. Tính cạnh tranh của kinh tế Mỹ đã giảm trước sự lớn mạnh của Nhật Bản và Tây Đức, đang hồi phục nhanh chóng từ đống tro tàn thời chiến tranh với các cơ sở công nghiệp của họ. Kẻ thừa kế ở thế kỷ 20 của Anh Quốc như là "công xưởng của thế giới," Hoa Kỳ thấy mình đang mất tính cạnh tranh trên các thị trường quốc tế trong khi phải đối mặt với những cạnh tranh mạnh của nước ngoài ngay tại thị trường trong nước. Trong khi ấy, các quốc gia Khối hiệp ước Warsaw liên kết chặt chẽ với nhau cà về kinh tế và quân sự. Tất cả các quốc gia Khối Warszawa đều có vũ khí hạt nhân và cung cấp vũ khí, hậu cần và viện trợ kinh tế cho các nước khác.

Nam Á

Tiểu lục địa Ấn Độ, có lẽ ngoại trừ trong cuộc chiến ở Afghanistan, không bao giờ là ưu tiên hàng đầu thu hút sự chú ý của siêu cường trong cuộc Chiến tranh Lạnh. châu Âu, Đông Á, Mỹ Latinh, và Trung Đông luôn được coi là có tầm quan trọng lớn hơn với các lợi ích của các siêu cường. Các quốc gia Nam Á, dù chiếm một phần năm dân số thế giới, không phải là các nền kinh tế mạnh như Nhật Bản hay Tây Âu. Không như Trung Đông với các giếng dầu của nó, Nam Á thiếu các nguồn tài nguyên có tính quan trọng sống còn. Tuy nhiên, lợi ích lớn nhất của Hoa Kỳ trong vùng là việc thành lập các sân bay có thể sử dụng làm căn cứ cho các chuyến bay U-2 trên lãnh thổ Liên Xô, hay trong trường hợp chiến tranh sẽ là nơi hạ cánh cho các máy bay ném bom hạt nhân có thể với tới Trung Á. Ban đầu, cả người Mỹ và người Liên Xô đều cho rằng vùng này sẽ tiếp tục ở trong vùng ảnh hưởng của Anh, nhưng thực tế đã không diễn ra như vậy.

Có một số lý do chiến lược để dính líu tới Nam Á. Người Mỹ hy vọng các lực lượng vũ trang Pakistan có thể được sử dụng để ngăn chặn bất kỳ sự xâm nhập nào của Liên Xô vào khu vực Trung Đông tối quan trọng. Họ cũng cảm thấy rằng là một quốc gia lớn và có nhiều tiềm năng, Ấn Độ sẽ là một giải thưởng đáng giá nếu nó rơi vào tay phe khác. Ấn Độ, một nền dân chủ đang phát triển, chưa bao giờ rơi vào tình thế đặc biệt nguy hiểm trước nguy cơ rơi vào tay những kẻ phiến loạn hay áp lực bên ngoài từ một cường quốc lớn. Họ cũng không muốn liên minh với Hoa Kỳ.

Một sự kiện quan trọng ở vũ đài Nam Á của cuộc cạnh tranh thời Chiến tranh Lạnh và việc ký kết Thoả thuận Hỗ trợ Quốc phòng Song phương giữa Pakistan và Hoa Kỳ năm 1954. Hiệp ước này sẽ hạn chế các lựa chọn sau này của mọi cường quốc lớn trong vùng. Hoa Kỳ cam kết duy trì quan hệ chặt chẽ với Pakistan. Với Pakistan, liên minh với Hoa Kỳ trở thành một giáo lý trung tâm của chính sách đối ngoại của họ, và dù có nhiều bất mãn với nó, nó vẫn luôn được coi là một mối quan hệ quá có giá trị để từ bỏ. Sau cuộc chia rẽ Trung-Xô, Pakistan cũng theo đuổi các quan hệ với Trung Quốc.

Chính sách của Liên Xô về Nam Á rất gần với chính sách của Hoa Kỳ. Ban đầu người Liên Xô, giống như người Mỹ, hầu như không quan tâm tới vùng này và duy trì một lập trường trung lập trong những cuộc tranh cãi Ấn Độ-Pakistan. Với việc ký kết các thoả thuận giữa Pakistan và Hoa Kỳ năm 1954, cùng với việc các quốc gia tham dự vào CENTO và SEATO, tình thế đã thay đổi. Năm 1955, Bulganin và Khrushchev quay sang Ấn Độ và hứa hẹn những khoản tài chính lớn cũng như việc hỗ trợ xây dựng cơ sở công nghiệp cho nước này. Tại Sringar, thủ phủ của Kashmir, các lãnh đạo Liên Xô đã tuyên bố rằng Liên bang Xô viết sẽ từ bỏ vị thế trung lập của mình và ủng hộ Ấn Độ trong cuộc tranh cãi đang diễn ra tại Kashmir.

Tuy nhiên, Jawaharlal Nehru vẫn còn hoài nghi, và vì nhiều lý do ông muốn trãnh những vướng mắc với Hoa Kỳ và ông cũng muốn giữ Ấn Độ không bị lệ thuộc quá nhiều vào Liên Xô. Dù Liên Xô đã gửi cho Ấn Độ một số viện trợ và dù Nehru trở thành nhà lãnh đạo không cộng sản đầu tiên phát biểu trước nhân dân Liên Xô, hai quốc gia vẫn khá xa cách. Sau khi Khrushchev bị hạ bệ, người Liên Xô lại khôi phục lập trường trung lập và làm dịu nhẹ hậu quả của cuộc chiến tranh năm 1965. Những cuộc đàm phán hoà bình được tổ chức tại thành phố Tashkent vùng Trung Á.

Tới cuối những năm 1960s, những nỗ lực phát triển của Ấn Độ một lần nữa trở nên trì trệ. Một sự thâm hụt tài khoản vãng lai lớn xuất hiện và một trận hạn hán nghiêm trọng ảnh hưởng nặng nề tới ngành nông nghiệp. Như với sự suy giảm của một thập kỷ trước đó, Ấn Độ một lần nữa lại tìm kiếm sự giúp đỡ từ bên ngoài. Tuy nhiên, các quan hệ khi ấy đã ở mức rất thấp với Hoa Kỳ, nước đang rất bận tâm tới Việt Nam. Trên hết, nhiều vấn đề nhỏ hơn khác đã khiến sự dửng dưng của Hoa Kỳ trở thành ác cảm. Các tổ chức quốc tế phương Tây như Ngân hàng Thế giới cũng không muốn cam kết các khoản tiền cho các dự án phát triển ở Ấn Độ nếu không có những nhượng bộ về thương mại của họ.

Cùng với các quốc gia Khối hiệp ước Warsaw khác, người Liên Xô bắt đầu cung cấp viện trợ ở quy mô lớn cho những nỗ lực của Ấn Độ nhằm xây dựng một cơ sở công nghiệp. Năm 1969, hai cường quốc đàm phán một hiệp ước hữu nghị có thể biến sự không liên kết chỉ còn là lời mở đầu. Hai năm sau, khi phải đối mặt với cuộc khủng hoảng ngày càng gia tăng ở Đông Pakistan (hiện là Bangladesh), Ấn Độ đã ký kết thoả thuận.

Nam Á và cuộc Chia rẽ Trung-Xô

Trước cuộc chia rẽ Trung-Xô, những căng thẳng giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã cản trở những cố gắng của Liên Xô nhằm duy trì mối quan hệ chặt chẽ với cả hai cường quốc châu Á đang nổi lên này. Tháng 3 năm 1959, Trung Quốc đàn áp một cuộc nổi dậy ở Tây Tạng, dẫn tới sự bùng nổ chiến tranh giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Ngày 31 tháng 3, Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần và thế tục của Tây Tạng, bỏ trốn sang Ấn Độ, nơi ông được trao quy chế tị nạn vì sự phản kháng Trung Quốc. Sau này Ấn Độ ủng hộ một hành động tại đại hội đồng Liên hiệp quốc để bước vào một cuộc tranh luận ở mức độ cao nhất về các trách nhiệm nhân quyền của Trung Quốc trong vụ đàn áp với sự phản đối của Liên Xô, Ba Lan, Nam Tư, Albania, Romania, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, Tiệp Khắc, Bắc Triều Tiên và Mông Cổ. Tuy nhiên, dù có sự phản đối của Khối hiệp ước Warsaw, Mông Cổ và Bắc Triều Tiên với cuộc tranh cãi được Ấn Độ ủng hộ ở Liên hiệp quốc, Mao Trạch Đông dần đối đầu với thái độ im lặng và lưỡng lự trong việc ủng hộ các hành động của Trung Quốc ở Tây Tạng.

Cuộc xâm lược Tây Tạng của Trung Quốc tạo ra một sự đối đầu nguy hiểm hơn nhiều giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Ngày 29 tháng 8 năm 1959, Thủ tướng Nehru thông báo với nghị viện Ấn Độ rằng quân đội Trung Quốc đã xâm lược Ấn Độ từ cả hai sườn của Tây Tạng và đã chiếm giữ nhiều đồn biên phòng. Dẫn ra những căng thẳng với Ấn Độ trong nhiều năm qua, Trung Quốc tiết lộ rằng họ không còn chấp nhận Đường McMahon giữa Trung Quốc và Ấn Độ như một biên giới pháp lý nữa, và đưa ra các yêu cầu chủ quyền với Aksai Chin, Sikkim và nhiều phần của Assam(hiện là Arunachal Pradesh). Những trách nhiệm và lên án trách nhiệm vi phạm biên giới và tình trạng thù địch diễn ra. Ngày 9 tháng 9, vài ngày trước chuyến đi tới Hoa Kỳ, Janos Kadar của Hungary đã tìm cách hoà giải những tranh cãi giữa Trung Quốc và Ấn Độ, với hy vọng có được những quan hệ thân thiện với cả hai bên. Khruschev và Alexander Dubček của Tiệp Khắc cũng lên tiếng yêu cầu Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy nhiên, phản ứng của Trung Quốc với những lời kêu gọi của Liên Xô, Hungary và Tiệp Khắc về sự "cùng tồn tại hoà bình" với phương Tây và Ấn Độ không được coi là đáng khích lệ; và sự gia tăng căng thẳng dọc dãy Himalayas đã thu hút sự chú ý của thế giới với liên minh Khối hiệp ước Warsaw-Trung Quốc, vốn dựa trên các quyền lợi lý tưởng, chính trị và quân sự chung.

Tới khi sự tranh cãi biên giới Trung-Ấn phát triển lên thành một cuộc chiến ở cấp độ lớn nhất trong cuộc Chiến tranh Trung-Ấn năm 1962, liên minh giữa hai cường quốc cộng sản hàng đầu cũng tan vỡ. Dù các quốc gia thuộc Khối hiệp ước Warsaw ủng hộ đề xuất hoà bình tháng 10 năm 1962 của Trung Quốc, hối thúc Nehru chấp nhận nó, việc Albania và Romania đề nghị cung cấp các máy bay chiến đấu MiG cho Ấn Độ đã khiến các quan hệ Trung Quốc-Albania và Trung Quốc-Romania trở nên khủng hoảng. Điều này cũng khiến Trung Quốc quay sang chống lại các quốc gia cộng sản châu Âu khác. Tới cuối năm 1963, Khối Đông Âu và Trung Quốc đã lao vào những cuộc tranh cãi chống lại nhau, mở ra một giai đoạn thù địch công khai giữa các đồng minh cũ và kéo dài trong suốt thời kỳ còn lại của cuộc Chiến tranh Lạnh.

Châu Phi

Một trong những quốc gia đầu tiên thoát khỏi chế độ thực dân và yêu cầu viện trợ từ phương Tây là Cộng hoà Dân chủ Congo, dưới sự lãnh đạo của Patrice Lumumba. Một lực lượng lớn lính gìn giữ hoà bình Liên hiệp quốc từ các quốc gia NATO và các đồng minh khác của NATO đã được triển khai ở Congo từ khi nước này độc lập khỏi Bỉ năm 1960. Hoa Kỳ đã sử dụng lực lượng này để bắn hạ việc vận tải đường không và ngăn chặn vũ khí và quân đội từ phương Đông tới được nước này. Tuy nhiên, một số vũ khí vẫn lọt vào được từ các quốc gia khác. Lực lượng gìn giữ hoà bình quyết định loại bỏ Lumumba và ủng hộ Đại tá Joseph Mobutu trong một cuộc đảo chính giết hại Lumumba. Cuộc khủng hoảng Congo có một hiệu ứng làm một số quốc gia thuộc thế giới thứ ba xa lánh cả phương Tây và phương Đông bởi họ cho rằng phương Đông là yếu ớt và không có tác dụng gì, còn phương Tây là trái đạo lý và vô liêm sỉ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Lạnh_(1953–1962) http://histclo.com/essay/war/cold/war-cold.html http://www.hungarianquarterly.com/no154/086.html http://www.imdb.com/title/tt0046587/?ref_=tt_ov_in... http://www.imdb.com/title/tt0053137/ http://www.imdb.com/title/tt0093044/?ref_=nv_sr_1 http://www.imdb.com/title/tt0310853/?ref_=fn_al_tt... http://occawlonline.pearsoned.com/bookbind/pubbook... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8... http://www.videofact.com/english/cia_kgb.html http://www.fordham.edu/halsall/mod/1956hungary-16p...